I. Các yêu cầu về công nghệ.
1. Bê tông.
a) Yêu cầu cấp phối.
- Sử dụng bêtông thương phẩm mác B20, B25,...
- Đổ bêtông theo nguyên tắc dùng ống dài
(vữa dâng) nên theo tỷ lệ cấp phối bêtông cấp
phối cũng phải phù hợp với phương pháp này
(bêtông đủ độ dẻo, độ dính, dễ chảy trong ống dẫn).
Đối với phương pháp vữa dâng dung dịch bentonite
giúp ổn định thành vách hố khoan, ống bơm
bêtông luôn luôn để ngập trong bê
tông, khi đó bê tông dâng dần lên
sẽ từ từ đẩy dung dịch bentonite ra ngoài hố khoan cọc nhồi.
- Phương pháp đổ bêtông cọc khoan nhồi rút ống thẳng đứng sử dụng thành ống vách: Sử dụng khi địa chất yếu, khu vực có nước mặt hang động.
+ Ống vách tạm thời: Rút lên trong quá trình đổ bê tông cọc
+ Ống vách vĩnh cửu: Để lại sau khi thi công
Ưu điểm: Chất lượng cọc tốt
Nhược điểm: Máy thi công ống vách cồng kềnh, gây ồn.
- Bê tông:
+ Tỷ lệ N-XM 50%.
+ Khối lượng XM 400kg/m3 bêtông.
+ Cát khoảng 45%.
- Độ sụt hình nón hợp lý 181,5(cm) (Thường 13
18(cm)).Việc cung cấp bêtông phải liên tục sao cho
toàn bộ thời gian để bêtông một cọc được hoàn
thành trong 4h.
- Có thể sử dụng phụ gia để thoả mãn các đặc
tính trên của bêtông.
- Đường kính lớn nhất của cốt liệu là trị số nhỏ nhất
trong các kích thước sau:
+ Một phần tư mắt ô của lồng cốt thép.
+ Một nửa lớp bảo vệ cốt thép.
+ Một phần tư đường kính trong của ống đổ
bêtông.
- Cần chọn nhà máy chế tạo bêtông thương phẩm
có công nghệ hiện đại, cốt liệu và nước phải sạch
theo yêu cầu. Cần trộn thử và kiểm tra năng lực của
nhà máy và chất lượng bêtông. Chọn
thành phẩm cấp phối bêtông và các phụ
gia trước khi đổ hàng loạt.
-Tại công trường mỗi xe bêtông thương phẩm đều phải
được kiểm tra về chất lượng sơ bộ, thời điểm bắt đầu trộn và thời
gian khi đổ xong bêtông, độ sụt nón cụt. Mỗi cọc phải
lấy 3 tổ hợp mẫu để kiểm tra cường độ. Phải có kết quả kiểm tra
cường độ của 1 phòng thí nghiệm đầy đủ tư cách
pháp nhân và độc lập.
b) Thiết bị sử dụng cho công tác bêtông.
- Bêtông thương phẩm chở đến bằng xe chuyên
dụng.
- Ống dẫn bêtông từ phễu đổ xuống độ sâu yêu
cầu.
- Phễu hứng bêtông từ xe đổ nối với ống dẫn.
- Giá đỡ ống và phễu.
2. Cốt thép.
- Cốt thép được sử dụng đúng chủng loại, mẫu mã
được qui định trong thiết kế đã được phê duyệt, cốt
thép phải có đủ chứng chỉ của nhà sản xuất, kết quả
thí nghiệm của một phòng thí nghiệm độc lập
có đầy đủ tư cách pháp nhân cho từng lô
trước khi đưa vào sử dụng...
- Cốt thép được gia công, buộc dựng thành lồng được
vận chuyển và đặt lên giá gần với vị trí lắp
đặt để thuận lợi cho việc thi công sau này.
- Chiều dài mối nối buộc 45d (d- đường kính thép
cọc), thép buộc có đường kính 3,2(mm).
- Mối buộc thép đai dùng mối nối hàn điện một
bên, chiều dài đường hàn 15d. Thép đai gia
cường được hàn với thép chịu lực.
- Cự li mép - mép giữa các cốt chủ phải lớn hơn 3
lần đường kính hạt cốt liệu thô của
bêtông.
- Đai tăng cường nên đặt ở mép ngoài cốt chủ, cốt
chủ không có uốn móc, móc làm theo
yêu cầu công nghệ thi công không được thò
vào bên trong làm ảnh hưởng đến hoạt động của ống
dẫn bêtông.
- Đường kính trong của lồng thép phải lớn hơn 100mm so với
đường kính ngoài ở chỗ đầu nối ống dẫn
bêtông.
- Để đảm bảo độ dày của lớp bảo vệ bêtông cần đặt
các định vị trên thanh cốt chủ cho từng mặt cắt theo chiều
sâu cọc.
- Theo TCXD 206 - 1998 sai số cho phép chế tạo lồng cốt
thép:
3. Dung dịch Bentônite.
- Trong thi công cọc khoan nhồi dung dịch Bentônite
có ảnh hưởng lớn tới chất lượng cọc:
+ Cao trình của dung dịch thấp, cung cấp không đủ,
Bentônite bị loãng, tách nước dễ dẫn đến sập
thành hố khoan, đứt cọc bêtông.
+ Dung dịch quá đặc, hàm lượng cát nhiều dẫn đến
khó đổ bêtông, tắc ống đổ, lượng cát lớn lắng
ở mũi cọc sẽ làm giảm sức chịu tải của cọc.
- Tác dụng của dung dịch Bentônite.
+ Làm cho thành hố đào không bị sập nhờ dung
dịch chui sâu vào các khe cát, khe nứt, quyện
với cát rời đẽ sụp lở để giữ cho cát và các
vật thể vụn không bị rơi và tạo thành một
màng đàn hồi bọc quanh thành vách hố giữ cho
nước không thấm vào vách.
+ Tạo môi trường nặng nâng những đất đá, vụn khoan,
cát vụn nổi lên mặt trên để trào hoặc
hút khỏi hố khoan.
+ Làm chậm lại việc lắng cặn xuống của các hạt cát,
ở trạng thái hạt nhỏ huyền phù nhằm dễ xử lý lắng
cặn.
-Với việc sử dụng vữa sét Bentônite, thành hố khoan
được ổn định nhờ 2 yếu tố sau:
+ Dung dịch Bentônite tác dụng lên thành hố
khoan một giá trị áp lực thuỷ tĩnh tăng dần theo chiều
sâu.
+ Các hạt nhũ sét sẽ bám vào thành hố
khoan xâm nhập vào các lỗ rỗng trên
vách hố tạo thành một lóp màng mỏng
không thấm nước và bền.
- Vì vậy việc chuẩn bị sẵn đủ dung dịch Bentônite có
chất lượng tốt giữ vai trò quan trọng trong quá
trình thi công và chất lượng cọc nhồi.
b) Qui trình trộn dung dịch Bentônite.
- Đổ 80% lượng nước theo tính toán vào bể
trộn.
- Đổ từ từ lượng bột Bentônite theo thiết kế.
- Đổ từ từ lượng phụ gia nếu có.
- Trộn tiếp từ 15-20'
- Đổ nốt 20% lượng nước còn lại và trộn trong
10'.
- Chuyển dung dịch Bentônite đã trộn sang thùng
chứa, sẵn sàng cấp cho hố khoan hoặc trộn với dung dịch
Bentônite thu hồi đã lọc lại qua máy sàng
cát để cấp cho hố khoan.
Trạm trộn dung dịch khoan tại công trường gồm:
Một máy trộn Bentônite.
+ Một số thiết bị chế tạo đảm bảo sự hoà tan của bột
Bentônite vào nước
+ Một hoặc nhiều bể chứa hoặc xilô cho phép công
trường chuẩn bị dự trữ đủ để đề phòng mọi sự cố về khoan.
+ Một số thiết bị vệ sinh đảm bảo việc tách các cặn lớn
bằng sàng và cát bằng cyclon ly tâm.
c) Một số chú ý khi sử dụng Bentônite thi công
cọc khoan nhồi.
- Liều lượng pha trộn từ 30 50 kg Bentônite/m3, tuỳ theo chất
lượng nước.
- Nước sử dụng: nước sạch, nước máy.
- Chất bổ sung để điều chỉnh độ pH: NaHCO3 hoặc tương tự.
- Tuỳ theo trường hợp cụ thể để đạt các chỉ tiêu mà
qui định đề ra có thể dùng một số chất phụ gia như: Na2CO3
hoặc NaF.
- Trong thời gian thi công, bề mặt dung dịch trong lỗ cọc phải cao
hơn mực nước ngầm từ 1,0m trở lên, khi có ảnh hưởng của mực
nước ngầm lên xuống thì mặt dung dịch phải cao hơn mực nước
ngầm 1,5m.
- Trước khi đổ bêtông, khối lượng riêng của dung dịch
trong khoảng từ 500mm kể từ đáy lỗ phải nhỏ hơn 1,25; hàm
lượng cát 8%; độ nhớt 28s để dễ bị đẩy lên mặt đất.
- Khối lượng riêng, độ nhớt chọn phải phù hợp với điều kiện
địa chất công trình và phương pháp sử dụng
dung dich.
- Ngoài dung dịch Bentônite có thể dùng chất
CMC, dung dịch tổng hợp, dung dịch nước muối... tuỳ thuộc vào
điều kiện địa chất công trình.
II. Qui trình công nghệ thi công cọc khoan
nhồi bằng phương pháp gầu xoắn trong dung dịch
Bentônite có sử dụng ống vách.
Qui trình công nghệ thi công cọc khoan nhồi được thể
hiện trình tự công việc theo sơ đồ:
1.Đây là công việc quan trọng ảnh hưởng đến vị
trí và khoảng cách các cột của
công trình, là công việc định vị vị
trí công trình từ bản vẽ thiết kế đưa ra thực
địa.
- Căn cứ vào bản đồ định vị công trình do văn
phòng kiến trúc sư trưởng hoặc cơ quan tương đương cấp,
lập mốc giới công trình. Các mốc này phải
được cơ quan có thẩm quyền kiểm tra chấp nhận.
- Từ mặt bằng định vị móng cọc, lập hệ thống định vị và
lưới khống chế cho công trình theo hệ tọa độ X,Y.
Các lưới này được chuyển dời và cố định vào
các công trình lân cận hoặc hợp thành
các mốc định vị. Các mốc này được rào chắn
và bảo vệ cẩn thận và liên tục kiểm tra đề
phòng xê dịch do va chạm và lún gây
ra.
- Hố khoan và tim cọc được định vị trước khi đặt ống chống rồi
giữ hai mốc kiểm tra vuông góc nhau và cùng
cách tim cọc một khoảng bằng nhau.
2. Hạ ống vách.
- Ống vách (hay ống chống) bằng thép có đường
kính lớn gầu khoan xấp xỉ 100 150mm ta chọn 900mm dài (2,5
3)d lấy 2m, đặt ở phần trên miệng hố khoan nhô lên
khỏi mặt đất khoảng 0,6m.
- Ống vách có tác dụng:
+ Định vị và dẫn hướng cho máy khoan đi thẳng theo.
+ Giữ ổn định cho bề mặt hố khoan đảm bảo không bị sập
thành trên hố khoan
+ Bảo vệ hố khoan để sỏi, đá, thiết bị không rơi vào
hố khoan
+ Dùng làm sàn đổ tạm và thao tác cho
việc buộc, nối, lắp dựng cốt thép và ống đổ
bêtông.
- Ống vách được thu hồi lại sau khi đổ xong bêtông
cọc.
- Ống vách được hạ xuống bằng phương pháp sử dụng
chính máy khoan với gầu có lắp thêm đai cắt
để mở rộng đường kính. Khoan sẵn một lỗ đến độ sâu của ống
vách, sử dụng cần cẩu để mở rộng đường kính, khoan sẵn một
lỗ đến độ sâu của ống vách, sử dụng cần cẩu hoặc máy
đào đưa ống vách vào vị trí, hạ xuống
đáy công trình cần thiết. Sau khi đặt xong ống
vách phải chèn chặt ống vách bằng đất sét
và nêm không cho ống vách dịch chuyển trong
quá trình khoan.
3. Khoan tạo lỗ.
- Do dung dịch Bentônite có tầm quan trọng đặc biệt đối với
hố khoan nên trước khi khoan phải kiểm tra chất lượng dung dịch
Bentônite, đường thu hồi, máy bơm bùn, máy
lọc và các máy dự phòng, đặt thêm ống
bao để tăng cao trình và áp lực của dung dịch nếu
cần thiết. Kiểm tra các thiết bị khoan, dây cáp, gầu
đào... để công việc được liên tục tránh
các sự cố xảy ra trong khi khoan.
- Điều chỉnh độ nằm ngang của máy khoan và độ thẳng đứng
của cần khoan. Xác định toạ độ của gầu khoan trên
bàn điều khiển của máy khoan để thao tác được nhanh
chóng và chính xác.
- Cần khoan có tên là Kelly Bar có chế tạo
đặc biệt dạng angten gồm 3 ống lồng vào nhau và truyền
được chuyển động xoay, ống trong cùng gắn với gầu khoan, ống
ngoài cùng gắn với động cơ xoay của máy khoan
có tốc độ quay từ 20 30 vòng/phút. Công suất
khoan có thể đạt được từ 8-15m3/h. Khi gầu khoan đầy đất, gầu sẽ
được kéo lên từ từ (0,3- 0,5m/s). Với tốc độ này đảm
bảo không gây ra hiệu ứng Pistông làm sập
thành hố khoan.
- Khi khoan quá chiều sâu ống vách, thành hố
khoan sẽ do Bentônite giữ. Do vậy phải cung cấp đủ dung dịch
Bentônite tạo thành áp lực giữ cho thành hố
khoan không bị sập. Cao trình dung dịch phải cao hơn mực
nước ngầm ít nhất 1-2m.
- Khi khoan có thể xác định sơ bộ chiều sâu hố khoan
qua cuộn cáp hoặc chiều dài cần khoan. Để xác định
chính xác dùng một quả dọi có đường
kính khoảng 5cm buộc vào đầu thước dây thả xuống
đáy để đo và kiểm tra chiều sâu hố khoan và
cao trình bêtông trong quá trình đổ.
Trong suốt quá trình đào phải kiểm tra độ thẳng
đứng của cọc thông qua cần khoan phải đảm bảo cọc có độ
nghiêng không quá 1%.
- Trong khi khoan do cấu tạo nền đất khác nhau và
có thể gặp dị vật nên đòi hỏi người chỉ huy đội
khoan phải có nhiều kinh nghiệm để xử lý kịp thời với một
số công cụ đặc biệt:
+ Đất cát, sỏi trơn nên dùng gầu thùng.
+ Đât sét rắn nên dùng gầu khoan guồng xoắn
ruột gà.
+ Đá non, đá cố kết dùng mũi phá, khoan
đá kết hợp.
4. Xác nhận độ sâu hố khoan.
- Trong khi thiết kế, người thiết kế căn cứ vào một vài hố
khoan khảo sát để giả thiết và tính toán độ
sâu trung bình cần thiết của cọc nhồi. Trong thực tế do mặt
cắt địa chất có thể không bằng phẳng giữa các mũi
khoan nên không nhất thiết phải khoan đúng đến một độ
sâu thiết kế nào đó. Trong thực tế người thiết kế
quy định địa tầng đặt đáy cọc và khi khoan phải ngập
vào lớp đất đáy cọc ít nhất 1 lần đường kính
cọc. Để xác định chính xác điểm dừng này khi
khoan người ta lấy mẫu cho từng gầu khoan. Người giám sát
hiện trường xác nhận đã đạt chiều sâu yêu cầu,
ghi chép đầy đủ kể cả chụp ảnh tư liệu báo cáo cho
từng khoan, sử dụng gầu làm sạch để vét sạch đất đá
rơi trong đáy hố khoan và chuyển sang công đoạn
khác.
5. Hạ cốt thép.
- Cốt thép được buộc sẵn thành từng lồng, vận chuyển
và đặt lên giá gần hố khoan. Sau khi kiểm tra
đáy hố khoan nếu lớp bùn, cát lắng dưới đáy
hố khoan không quá 10cm thì có thể tiến
hành lắp cốt thép.
- Cốt thép được hạ xuống hố khoan theo từng lồng một, treo tạm
thời lên miệng ống vách bằng cách ngáng qua
các đai gia cường buộc sẵn, cách đầu trên của lồng
khoảng 1,5m.
- Dùng cần cẩu đưa lồng tiếp theo nối với lồng dưới và
tiếp tục hạ xuống đến khi xong. Cốt thép được cố định vào
miệng ống vách qua 4 quang treo vào miệng ống vách.
Trường hợp cốt thép đặt không hết chiều sâu cọc cần
chống lực đẩy nổi cốt thép khi đổ bêtông bằng
cách hàn 3 thanh thép hình I 0120 vào
vách ống để cố định lồng thép. Để đảm bảo lớp bảo vệ cốt
thép dọc là 10cm cần hàn điểm thêm đai bằng
thép lập là ra ngoài lồng thép hoặc
các con kê bêtông.
- Khi hạ cốt thép phải từ từ cho cốt thép thẳng đứng
và tránh va chạm lồng thép vào thành
hố khoan.
6. Lắp ống đổ bêtông.
- Ống đổ bêtông được làm bằng thép có
đường kính từ 25 30cm được làm thành từng đoạn
có chiều dài thay đổi là 2m; 1,5m; 1m; 0,5m để
có thể lắp ráp tổ hợp theo chiều sâu hố khoan.
- Có hai cách nối hiện nay là nối bằng ren
và nối bằng cáp. Nối bằng cáp thường nhanh
và thuận lợi hơn. Chỗ nối ống có găng cao su để ngăn dung
dịch Bentônite thâm nhập vào bêtông trong
đổ, được bôi mỡ để cho việc tháo lắp dễ dàng.
- Ống đổ bêtông được lắp dần từng ống từ dưới lên. Để
có thể lắp được ống người ta sử dụng một hệ giá đỡ đặc
biệt có cấu tạo như một thang thép đặt qua miệng ống
vách. Trên thang có 2 nửa vành khuyên
có bản lề. Khi hai nửa vành khuyên sập xuống tạo
thành hình côn ôm khít thành ống
đổ, miệng ống đổ có đường kính to hơn bị giữ lại
trên 2 nửa vành khuyên đó và như vậy
ống đổ bêtông được treo vào miệng ống vách qua
giá đặc biệt này. Đáy dưới của ống đổ được đặt
cách đáy hố khoan 20cm để tránh bị tắc ống do đất
đá dưới đáy hố khoan nút lại.
7. Xử lý cặn lắng dưới đáy hố khoan.
- Trong công nghệ khoan ướt, các hạt mịn lơ lửng trong dung
dịch Bentônite lắng xuống tạo thành một lớp bùn đất
ảnh hưởng lớn tới khả năng chịu lực của mũi cọc. Sau khi lắp ống đổ
bêtông xong, ta đo lại chiều sâu đáy hố khoan 1
lần nữa nếu lớp lắng lớn hơn 10cm thì phải tiến hành xử
lý cặn lắng.
- Phương pháp thổi rửa bằng khí nén: Dùng
ống đổ bêtông làm ống xử lý cặn. Sau khi lắp
xong ống đổ bêtông người ta lắp đầu thổi rửa lên đầu
trên của ống đổ, đầu thổi rửa có 2 cửa, 1 cửa được nối với
ống dẫn 150 để thu hồi dung dịch Bentônite và bùn
đất từ đáy hố khoan về thiết bị thu hồi dung dịch. Một cửa
khác được thả ống khí nén 45 ống này
dài khoảng 80% chiều dài cọc. Khi bắt đầu thổi rửa
khí nén được thổi qua đường ống 45 nằm trong ống đổ
bêtông với áp lực khoảng 7kg/cm2, áp lực
này được giữ liên tục. Khí nén ra khỏi ống 45
thoát lên trên ống đổ tạo thành một áp
lực hút ở đáy ống đổ đưa dung dịch Bentônite lẫn
bùn đất lắng theo ống đổ bêtông đến máy lọc
dung dịch. Quá trình thổi rửa kéo dài
20-30s, dung dịch Bentônite phải liên tục được cấp bù
trong quá trình thổi rửa. Sau đó thả dây dọi
đo độ sâu, nếu độ sâu đáy hố khoan được đảm bảo (lắng
10cm) thì chỉ cần kiểm tra dung dịch Bentônite lấy ra từ
đáy hố khoan.
Yêu cầu:
=1,04 1,2g/cm3 (tỷ trọng)
=20s 30s (Độ nhớt)
pH=9 12 (Độ pH)
8. Đổ bêtông.
Sau khi kết thúc thổi rửa hố khoan cần tiến hành đổ
bêtông ngay vì khi để lâu bùn cát
sẽ tiếp tục lắng ảnh hưởng đến chất lượng của cọc, do vậy công
việc chuẩn bị bêtông, cần cẩu, phễu đổ phải hết sức nhịp
nhàng. Bêtông thương phẩm để dùng để đổ cọc
phải có độ sụt 18 2cm. Bêtông khô quá
hoặc nhão quá đều gây ra tắc ống khi đổ
bêtông. Bêtông đổ cọc nhồi đổ qua phễu xe
bêtông, khi đổ những xe bêtông cuối cùng
áp lực đổ bêtông không còn lớn nữa
nên việc đổ bêtông khó khăn hơn, phải nhồi ống
đổ nhiều lần và dễ tắc ống đổ bêtông.
- Đổ bêtông cọc nhồi là đổ bêtông dưới
nước, trong dung dịch Bentônite bằng phương pháp rút
ống. Trước khi đổ bêtông người ta đặt một nút bấc
(hoặc quả cầu xốp) vào ống để ngăn cách dung dịch
Bentônite và dung dịch bêtông trong ống đổ. Sau
đó nút bấc sẽ nổi lên mặt trên miệng cọc
và được thu hồi.
- Đổ bêtông vào đầy phễu, cắt sợi dây
théo treo nút, bêtông đẩy nút bấc xuống
và tràn vào đáy hố khoan. Mẻ đầu tiên
theo nút chảy ra ngoài nhờ nâng ống cách
đáy 20cm.
- Từ từ hạ ống dẫn cho ngập trong bêtông, nhưng vấn phải đảm
bảo tốc độ di chuyển của bêtông trong ống (Tốc độ này
thường chậm để bêtông khỏi bị phân tầng v
120mm/s).
- Trong quá trình đổ bêtông, ống đổ
bêtông được rút dần lên từng đoạn sao cho ống
luôn ngập trong vữa bêtông tối thiểu 2m. Công
việc này phải được theo dõi sát sao vì nếu
sai xót lập tức cọc sẽ bị hỏng vì đứt, bêtông
trong cọc sẽ không liên tục. Quá trình đổ
bêtông cọc phải liên tục.
- Tốc độ cung cấp bêtông ở phễu cũng phải được giữ điều độ,
phù hợp với vận tốc di chuyển trong ống. Không nhanh
quá gây tràn ra ngoài, chậm quá cũng
gây nhiều hậu quả xấu dòng bêtông sẽ bị
gián đoạn.
- Thời gian đổ bêtông cọc chỉ nên khống chế trong 4h
vì mẻ bêtông đầu tiên sẽ bị đẩy nổi lên
trên cùng nên cần có phụ gia để kéo
dài ninh kết để đảm bảo cho nó không bị ninh kết
trước khi kết thúc hoàn toàn việc đổ
bêtông cọc. Để đảm bảo dị vật không rơi vào
làm tắc ống đổ nên hàn một lưới thép 100x100
để bêtông trước khi đổ phải đi qua lưới này.
- Để kết thúc quá trình đổ bêtông phải
xác định được cao trình cuối cùng của
bêtông. Phải tính toán và xác
định được cao trình thật của bêtông chất lượng tốt
vì phần trên cùng thường lẫn đất đá. Phải
tính toán đến việc khi rút ống vách
bêtông bị tụt xuống do đường kính ống khoan lớn hơn
ống vách. Nếu bêtông cọc cuối cùng thấp hơn
thiết kế việc nối cọc gặp nhiều khó khăn và tốn
kém, ngược lại nếu cao quá phải đập nhiều đầu cọc cũng tốn
kém.
- Kết thúc quá trình đổ bêtông
thì ống đổ được rút ra khỏi cọc, các đoạn ống được
rửa sạch xếp vào nơi qui định.
9. Rút ống vách.
- Trong công đoạn cuối này các giá đỡ,
sàn công tác, neo cốt thép vào ống
vách đều được tháo dỡ, ống vách được kéo từ
từ lên bằng cần cẩu, phải kéo thẳng đứng để tránh
xê dịch tim đầu cọc. Nên gắn một thiết bị rung vào
ống vách để việc rút ống vách được dễ dàng,
không gây hiện tượng thắt cổ chai ở cọc nơi kết thúc
ống vách.
- Sau khi rút ống vách phải lấp cát vào mặt
hố, lấp hố, thu Bentônite để tạo mặt phẳng, rào chắn tạm
bảo vệ cọc. Không được rung động trong vùng hoặc khoan cọc
khác trong 24h kể từ khi kết thúc đổ bêtông
cọc trong phạm vi 5 lần đường kính cọc (4m).
III. Kiểm tra chất lượng cọc khoan
nhồi.
1. Nguyên nhân gây khuyết tật trên
cọc.
Do cọc khoan nhồi được thi công trong điều kiện khó khăn
nên mặc dù công nghệ thi công cọc ngày
càng được hoàn chỉnh nhưng khả năng cọc bị khuyết tật vẫn
khá cao. Người ta đã tổng hợp và phân
tích hàng loạt nguyên nhân gây hư hỏng
cọc trong đó có các nguyên nhân chủ yếu
sau:
+ Sập vách trong quá trình khoan làm cho
tiết diện cọc bị thu nhỏ nhưng ngay dưới đó tiết diện cọc được mở
rộng.
+ Ma sát giữa bê tông và ống chống quá
lớn, công nghệ đổ bêtông và rút ống
chống không thích hợp làm cho cọc bị đứt đoạn.
+ Làm sạch hố khoan chưa triệt để làm cho mùn khoan
tích tụ dưới mũi cọc dẫn đến sức chịu tải của cọc bị giảm.
+ Bêtông có độ sụt quá thấp làm cho
bêtông trong cọc bị rời.
+ Mật độ cốt thép quá cao làm cho
bêtông không lọt ra ngoài phạm vi lồng
thép được.
+ Rút ống chống không dều làm cho cọc bị dịch chuyển
ngang cục bộ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguyên nhân gây hư
hỏng cọc khoan nhồi khá đa dạng, phần lớn các loại khuyết
tật do công nghệ thi công không thích hợp
gây ra. Để hạn chế các khuyết tật này cần thực hiện
kiểm tra chặt chẽ toàn bộ các công đoạn thi
công cọc.
2. Kiểm tra chất lượng cọc trong quá trình thi
công.
Với công nghệ thi công thích hợp và quy
trình kiểm tra chất lượng chặt chẽ, khả năng hư hỏng của cọc
có thể được giảm đến mức tối thiểu. Tại hiện trường cần kiểm tra
các yếu tố sau:
a) Kiểm tra dung dịch Bentonite.
Mục đích chủ yếu của việc kiểm tra dung dịch Bentonite là
đảm bảo cho thành hố khoan không bị sập trong quá
trình khoan cũng như trong khi đổ bêtông và để
kiểm tra việc thổi rửa đáy hố khoan trước khi đổ
bêtông.
Các thông số chủ yếu của dung dịch Bentonite thường được
khống chế như sau:
+ Hàm lượng cát:
< 5%
+ Dung trọng: 1,01 – 1,05
+ Độ nhớt: 35 sec
+ Độ pH: 9,5 – 12
b) Kiểm tra kích thước hố khoan.
Sau khi thổi rửa đáy hố khoan bằng dung dịch Bentonite cần kiểm
tra các thông số sau đây của đáy hố
khoan:
+ Đo chiều sâu: Đáy hố khoan được coi là sạch nếu
chiều sâu sau khi thổi rửa bằng chiều sâu khoan (xác
định bằng cách đo độ sâu cần khoan đã đạt tới trong
quá trình thi công hoặc bằng các thiết bị
khác).
+ Sử dụng một số thiết bị xuyên đơn giản đánh giá
sức kháng xuyên của đất dưới đáy hố.
+ Đo đường kính và độ thẳng đứng của hố khoan.
+ Trạng thái thành lỗ khoan.
c) Kiểm tra bêtông trước khi đổ.
Bêtông sử dụng trong thi công cọc khoan nhồi thường
phải kiểm tra các thông số sau:
+ Độ sụt (cho từng xe đổ): 15 cm
+ Cường độ sau 28 ngày (ép mẫu, bằng súng bật nấy
đối với bêtông ở đầu cọc hoặc siêu âm): 200 kg /
cm2
+ Cốt liệu thô trong bêtông: không lớn hơn cỡ
hạt theo yêu cầu của công nghệ.
+ Mức hỗn hợp bêtông trong hố khoan
+ Độ sâu ngập ống dẫn bêtông trong hỗn hợp
bêtông
+ Khối lượng bêtông đã đổ trong lỗ cọc
Bêtông đem thử cường độ phải từ xe trộn và từ
bêtông thân cọc.
d) Ghi chép trong quá trình thi công.
Trong quá trình thi công cần ghi chép thời
gian bắt đầu, thời gian kết thúc và các sự cố xảy
ra trong quá trình thực hiện các công việc
sau:
+ Đặt ống chống.
+ Bơm dung dịch Bentonite.
+ Khoan lỗ.
+ Thổi rửa đáy hố khoan.
+ Đặt lồng thép.
+ Đặt ống đổ bêtông.
+ Rút ống chống.
+ Thể tích bêtông cho từng cọc.
3. Kiểm tra chất lượng cọc sau khi thi công.
Sau khi đổ bêtông, việc kiểm tra chất lượng cọc cần được
tiến hành nhằm đánh giá chất lượng
bêtông cọc tại hiện trường, phát hiện các
khuyết tật và xử lí các cọc bị hư hỏng.
Có một số phương pháp kiểm tra như sau:
+ Phương pháp nén tĩnh
+ Phương pháp siêu âm
+ Phương pháp sóng ứng suất: có phương pháp
PIT, phương pháp PDA.